Mục đích được nêu ra là “cho phù hợp và theo kịp các nước cùng khu vực, thêm điều kiện cho người lao động tái tạo sức khoẻ và chăm sóc hạnh phúc gia đình”. Một đề nghị thật lý tưởng trong khi thực tiễn cuộc sống người lao động của chúng ta đang khó khăn nhiều mặt cả vật chất lẫn tinh thần. Và cũng thật hợp lý khi Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự diễn đàn, đề nghị cộng đồng doanh nghiệp nên tìm cách “tăng năng suất lao động, tăng giá trị, chứ không phải tăng thời gian làm việc”.
Nói thì dễ nhưng làm mới khó.
Một cảnh báo từ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cách đây không lâu cho thấy việc giảm giờ làm việc từ 48 giờ xuống 44 giờ/tuần có thể ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế Việt Nam, bao gồm giảm xuất khẩu 20 tỷ USD/năm, giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế 0,5%/năm, đồng thời giảm đáng kể năng lực cạnh tranh quốc gia. Nhiều doanh nghiệp cũng nghĩ như vậy khi cho rằng giảm giờ làm việc sẽ khiến tăng chi phí sản xuất, giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Mặc dù ai cũng biết rằng năng lượng người lao động không thể duy trì được trong 8 giờ liền nếu muốn dồn sự tập trung cho công việc gì đó.
Tuy vậy, khi vấn đề đã được khơi dậy thì chúng ta cũng nhìn vào thực tế mới tìm cách khắc phục được. Số liệu công bố chính thức cho thấy cách đây 2 năm mỗi lao động Việt Nam tạo ra 188 triệu đồng/năm. Nói một cách dễ hình dung thì năng suất lao động của Việt Nam tụt hậu 60 năm so với Nhật Bản, 40 năm so với Malaysia, 10 năm so với Thái Lan. Nếu tính theo giá trị tuyệt đối (PPP), chỉ số này chỉ tương đương 11,4% của Singapore, 35% của Malaysia, 64% của Thái Lan, 79% của Indonesia, 94,5% của Philippines.
Trong khi đó, theo khảo sát của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Việt Nam có thời gian làm việc thuộc loại cao nhất thế giới và khu vực. Không đối chiếu với các nước công nghiệp phát triển mà giờ làm việc ngày càng ít, chỉ cần so với bạn bè quanh ta thì mỗi năm, giờ làm việc của họ cũng ít hơn chúng ta. Chẳng hạn giờ làm việc của người lao động Indonesia ít hơn chúng ta 440 giờ, ở Campuchia ít hơn 184 giờ, ở Singapore ít hơn 176 giờ. Tất nhiên đây là những số liệu thống kê chính thức, chứ nếu kể đến thực trạng người lao động lang thang vì không có việc làm thì có thể thời gian rảnh rỗi của chúng ta không thua kém ai.
Nhìn chung, bức tranh việc làm của chúng ta phổ biến trên cả nước là “giờ làm cao, hiệu quả thấp”. Vậy thì chúng ta cũng không nên nghĩ đến giấc mơ hoang tưởng rằng vào năm 2030, Việt Nam sẽ trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Đừng quên rằng hơn 10 năm trước đây chúng ta đã từng vẽ ra một bức tranh đầy màu sắc như thế với điểm rơi được chọn lựa là vào năm 2020. Nhưng thời gian lặng lẽ trôi qua chúng ta mới nhận biết đó chỉ là một giấc chiêm bao, khi bài toán năng suất lao động chưa có đáp số. Nâng cao năng suất lao động là vấn đề chủ yếu cần tiếp cận ngay từ việc đào tạo, nâng cao năng lực, cải thiện trình độ quản lý.
Lý giải vấn đề năng suất lao động có thể nhìn vào hai góc cạnh dưới đây. Một là cơ cấu lao động theo ngành chưa hợp lý, khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản chiếm tổng số lao động lớn nhưng năng suất thấp, vì đa số là lao động giản đơn, công việc thời vụ không ổn định. Hai là nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu. Hai tình trạng này có mối quan hệ hữu cơ.
Tính đến năm 2022, nước ta có hơn 13,9 triệu lao động làm việc trong khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 27,5% tổng số lao động toàn nền kinh tế. Nhưng nếu tính cả số lao động làm các công việc tự sản tự tiêu thì có tới trên 18 triệu người, trong khi năng suất lao động của khu vực này chỉ bằng 43,1% năng suất toàn ngành kinh tế, tạo ra giá trị gia tăng thấp, dẫn đến năng suất lao động thấp.
Đây là vấn đề nan giải vì phần lớn người lao động khu vực này chưa qua đào tạo hoặc được đào tạo ở mức độ thấp, chưa tương ứng với nhu cầu thực tế và cụ thể chỉ chiếm 5% nguồn lực. Tình trạng này dẫn đến việc sản xuất kém hiệu quả, thu nhập thấp, mỗi người chỉ đạt khoảng 80 triệu đồng/năm, tư duy và cách làm còn lạc hậu, tạo chênh lệch giàu nghèo giữa các khu vực ngày càng lớn.
Trong điều kiện như vậy, để cải thiện năng suất lao động trong nông nghiệp, giải pháp quan trọng nhất là ứng dụng công nghệ cao vào khu vực này, tạo ra những chuyển biến mang tính đột phá trong sản xuất, giải quyết các thách thức bằng khoa học công nghệ, hạ giá thành. Đồng thời, nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp mới có thể đi vào cuộc cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường đang có nhiều thuận lợi cho chúng ta.
Vấn đề lâu dài là làm sao để nông thôn trở thành một địa bàn hấp dẫn mà ở đó có những nông dân chuyên nghiệp với tư duy kinh tế tổng hợp về khoa học và kỹ thuật, biết lắng nghe thị trường, biết làm chủ sản phẩm có hiệu quả kinh tế cao. Tất nhiên muốn có một lớp người nông dân chuyên nghiệp thì phải đào tạo họ bài bản với cơ chế hỗ trợ phù hợp, tạo nhiều việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho cư dân nhằm thu hút lao động có trình độ cao về nông thôn. Được vậy sự phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn sẽ là một bản đồng ca hài hoà, hấp dẫn.