, //, :: GTM+7
Thứ Sáu, 04/02/2022, 19:46

Đặt lưng chiếu cói mơ màng, làng ơi…

NGÔ ĐỨC HÀNH
(nongnghiep.vn)
Ông Dần năm nay đã ngoài 70, nhưng còn tráng kiện lắm. Lâu lắm rồi tôi không gặp ông.
Chuẩn bị nguyên liệu làm chiếu cói ở làng nghề Nam Sơn. Ảnh: Tư liệu.
Chuẩn bị nguyên liệu làm chiếu cói ở làng nghề Nam Sơn. Ảnh: Tư liệu.

Nhà ông “hai mặt phố” ngay một ngã tư đường thôn, góc vuông giữa nhà văn hóa thôn và lối qua sân kho hợp tác xã ngày nào. Đường thôn ngoắt nghéo, nhiều lối rẽ. Ở các đô thị lớn, đường rồi đến ngõ, ngách. Nam bộ thì gọi là hẻm, xẹc. Thôn xưa, làng cũ, nay là mấy khu phố có các trục lớn giao với quốc lộ 1A, mang tên đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, ghi dấu ấn tự hào một thời lịch sử. Ngõ, ngách được đánh số, chưa có tên gì. 

Nam Sơn xưa là một thôn, gồm hai làng trong 7 thôn của Đại Lộc (cũ), nay là thị trấn Nghèn, Can Lộc, Hà Tĩnh. Đây là thôn duy nhất có nghề dệt chiếu. Thôn hay làng chỉ có nghĩa tương đối, tên làng được gọi thành quen.

Quê lên phố, như đứa trẻ mới “tập đi”, đang dần dần mang diện mạo phố, lối sống phố, dẫu còn ngượng ngùng, như thiếu nữ lần đầu mặc váy. Lên phố, thôn quê nào chẳng mừng? Chỉ mong tình làng, nghĩa xóm đừng “xa cách phố”, “tắt lửa tối đèn” vẫn có nhau là ổn. 

Ông Dần là người có công đưa về và nghĩ ra nghề nhuộm chiếu. Từ chiếu đậu in ra thành chiếu hoa, dù in đơn giản, giống như bôi màu lên các khuôn đã cắt sẵn. Sau đó, đưa vào “lò” ủ nhiệt cho màu ăn lên từng sợi cói.

Những ngày ông dỡ chiếu hoa, cả gói làng nghi ngút khói. Màu sắc cũng chỉ xanh đỏ, các bản mẫu hay gọi là khuôn nhuộm chủ yếu là chữ “Song Hỷ”. Tích này từ bên Trung Quốc, nghe đâu do nhà văn Vương An Thạch, thế kỷ 10, thời Bắc Tống nghĩ ra trong ngày cưới vợ của chính mình. “Song Hỷ” dù ở bất cứ thời kỳ nào cũng đều mang những ý nghĩa tốt lành mang lại nhiều may mắn, trọn vẹn, là một biểu trưng không thể thiếu trong đám cưới người Việt hiện đại và người Trung Quốc. 

Cô dâu chú rể ngày cưới mua được đôi chiếu nhuộm của ông Dần có in chữ “Song Hỷ” đỏ tươi thì nhất rồi. Ông làm ăn kha khá một thời kỳ. Chiếu Nghèn có “thương hiệu” một thời kỳ dài. “Chiếu hoa mà trải sập vàng / Điếu ngô, xe trúc sao chàng chẳng say / Những nơi chiếu cói võng đay / Điếu sành, xe sậy chàng say la đà” (Ca dao). Chiếu quê tôi là một phần “huyền thoại” quê nhà.

Nói về xuất xứ nghề dệt chiếu làng tôi, chuyện rằng, 400 năm về trước có một nhà buôn giàu có tên là Đỗ Đạm, người thôn Càn Miếu, xã Hương Cần, Quỳnh Lưu (Nghệ An), bị người ta ghen ghét vu oan cho tội ăn cắp “quan vật”.

Lúc này, quan trấn xứ Nghệ An là Tào Quận công Ngô Phúc Vạn, phụ tá theo hầu ông là tú tài Nguyễn My Thọ, đều là người Trảo Nha. Án kiện lên quan, Đỗ Đạm phải theo hầu kiện vào tận Trấn Dinh. Qua vùng đất Trảo Nha, lính áp giải nghỉ chân một đêm, nhờ đó ông Đỗ Đạm gặp được tú tài Nguyễn My Thọ, bèn thực tình kể hết đầu đuôi cơ sự. 

Nhận thấy ông bị oan, hôm sau tú tài Nguyễn My Thọ theo đoàn áp giải vào Trấn Dinh gặp Tào Quận công trình trước sự việc. Lần ấy nhờ sáng suốt của Tào Quận công mà Đỗ Đạm được giải oan. Ông đội ơn, mới đem vàng bạc châu báu đến đáp tạ, song cả Tào Quận công lẫn tú tài My Thọ đều không nhận. Đương lúc chưa biết làm sao thì Đỗ Đạm biết chuyện tú tài Nguyễn My Thọ có vợ đã lâu mà chưa có con trai, mới ngỏ ý đem cô con gái đi theo cha hầu kiện gả cho. Tú tài Nguyễn My Thọ đồng ý. 

Con gái Đỗ Đạm về đất Trảo Nha, tên cũ của xã Đại Lộc, làm dâu, gia tài đem theo là tay nghề dệt chiếu học được từ nhà mẹ đẻ, cô bèn truyền dạy cho bà con trong làng. Từ đó trở đi, ngôi làng ven chân núi bên sông Nghèn thơ mộng, ngoài trồng trọt săn bắt, lại có thêm một nghề sinh nhai mới: Nghề dệt chiếu.

Nhờ đó mà dân làng có nghề dệt chiếu tồn tại cả trăm năm, thêm thu nhập để nuôi sống người dân. Tần tảo sớm khuya, vậy mà góp công nuôi lớn bao người. Biết bao chàng trai ra trận, chân cứng đá mềm nhờ những ngày chiếu, cói. Nhiều giáo sư, tiến sỹ, nhà văn, nhà thơ... sinh ra, lớn lên ở quê hương, ra đi lập nghiệp thành danh nhờ được nuôi dưỡng từ thoi dệt chiếu quê nhà.

Để làm chiếu, nguyên liệu đầu tiên phải dùng đến là cói, phương ngữ Nghệ gọi là lác. Sau đó là đay. Cói được mua từ các làng ven sông, ven hói ở các huyện thuộc Hà Tĩnh như Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Nghi Xuân; hoặc Nghệ An. Thậm chí dân làng ra tận Thanh Hóa mua về. Đay cũng vậy. Ngoài Thái Bình có những huyện nổi tiếng trồng đay như là Hưng Hà...

Phơi nguyên liệu làm chiếu cói ở làng nghề Nam Sơn. Ảnh: Tư liệu.
Phơi nguyên liệu làm chiếu cói ở làng nghề Nam Sơn. Ảnh: Tư liệu.

Cói được mua về, nếu là cói tươi được chẻ ra, phân loại theo độ dài, ngắn, rồi phơi khô. Đay cũng vậy, sau khi phơi khô thì xé nhỏ ra. Công việc xe đay, phù hợp với các bà, các mẹ; nối các sợi đay ngắn lại với nhau, hai bàn tay vo, vuốt cho tròn lại và cuộn lại thành cuộn tròn.

Khi dệt chiếu, công việc đầu tiên là rải sợi đay đều theo chiều dài được cố định thành “khuôn” trên nền nhà, dài hơn chiều dài một đôi chiếu. Đay rải có sợi trên, sợi dưới; và luồn vào dụng cụ dệt gọi là go. Go có nhiều khổ, ứng với chiều rộng loại chiếu cần dệt, ví dụ chiếu trải giường đơn, giường đôi. Go chiếu được các nghệ nhân thiết kế, đảm bảo yếu tố kỹ thuật khi rải sợi đay, luồn vào go thì hai sợi trên và dưới bắt chéo nhau, chèn chặt sợi cói...

Tôi không phải là người dệt chiếu, nhưng quan sát bố và mẹ làm thì thấy có nhiều công đoạn đòi hỏi sự khéo léo. Xe đay phải bảo đảm sợ đay vo tròn, mảnh; điểm nối không phát hiện ra. Lúc dệt, hai bàn tay cầm hai đầu go phải dập đều, cho sợi lác phía nào cũng được nén đều, chặt. Khi dệt chiếu, vắt sợi lác ở biên chiếu cho khéo để chiếc chiếu chặt, chắc, dùng mới bền. 

Chiếu dệt xong được được phơi nắng, phơi xong thì bó lại từng đôi, chờ ngày đưa ra chợ Nghèn bán; hoặc bán cho từng người mua gom để vận chuyển đi các chợ, bán cho dân các vùng miền khác. Chiếu Nam Sơn, từng “vượt biên” sang Lào, bán cho người Lào và người Việt sinh sống làm ăn trên đất Lào. 

Thời thịnh vượng nhất, nghề dệt chiếu Nam Sơn là cả làng dệt chiếu. Từ đầu thế kỷ 21 đến nay, nghề chiếu dần dần biến mất. Có nguyên nhân của thị trường là bây giờ có nhiều loại thay thế, ví dụ chiếu trúc, chiếu nhựa; đời sống vật chất đi lên, nên người dùng nệm, ga ngày càng nhiều.

Với nghề chiếu thủ công, còn có lý do là không có lợi nhuận, do chi phí cao, giá bán ngày càng thấp. Nay cả làng chỉ còn vài ba hộ làm chiếu. Gần ngõ nhà em trai tôi, mấy năm trước về chỉ còn gặp một nhà hàng xóm phơi lác. Có nghĩa là vẫn còn người lưu luyến với nghề cha ông để lại. 

Khi tôi lớn lên, chứng kiến dân buôn nồi đất ngoài Nghệ An rong ruổi khắp Bắc Nam, dọc quốc lộ 1A, qua quê tôi, chỉ với bàn chân trần. Nồi đất thật khó vận chuyển bằng xe cơ giới vì xe xóc, dễ vỡ mất. Nghề chiếu cói Nam Sơn cũng rong ruổi chẳng khác gì. Những người đi bán chiếu, có khi đến ngày Ba mươi Tết mới về đến làng. Tiền bán chiếu mua áo mới cho đàn con chưng diện, sắm sanh thêm mâm cỗ gia tiên...

Nhiều vùng quê nhờ làm chiếu mà thành thương hiệu du lịch, văn hóa, cho đến tận bây giờ. Chiếu đi vào lịch sử, vào văn học nghệ thuật. Với người dân làng tôi, chiếu cũng là một phần “hồn làng”. Đáng buồn, người nhớ nghề chiếu Nam Sơn ngày càng ít. Từ hôm gặp ông Dần, những hồi ức về làng, tôi càng không thể quên được, nhất là vào những cữ Tết, như này....

Tags

Bình luận

Xem nhiều





Nổi bật

Việt Nam đang chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử (TMĐT) với khoảng 1/3 trên tổng số 1.700 doanh nghiệp đã có doanh thu từ TMĐT. Nhưng con số 1/3 trên là quá ít trong xu hướng hiện nay, nhất là khi Trung Quốc ồ ạt xây dựng tổng kho TMĐT sát biên giới với Việt Nam.
Được quan tâm






Đăng ký nhận tin nóng
Giúp bạn cập nhật các thông tin mới nhất