, //, :: GTM+7
Thứ Sáu, 29/03/2024, 22:14
 
 
 

Ngày nay, nghề rèn vẫn tồn tại ở nhiều vùng miền khác nhau của Việt Nam và không ít làng nghề rèn có tuổi đời đến vài ba trăm năm. Tuy mỗi làng nghề có lịch sử hình thành cũng như kỹ thuật rèn tương đối riêng biệt nhưng nếu nghiên cứu kỹ, chúng ta vẫn có thể tìm thấy những mối liên hệ đặc biệt trong nghề giữa những nơi này…

 
 
 
 

Kỹ thuật rèn gồm ba bước chính: rèn nóng, rèn nguội và tôi sắt. Để rèn một con dao quắm, một trong những sản phẩm tốt nhất của người Nùng An ở Phúc Sen vùng Cao Bằng, cần đến 15 công đoạn, như cho sắt vào lò nung; đánh thẳng, dàn đều, tạo hình dáng ban đầu; đánh chuôi dao; cuộn chuôi dao thành hình ống; hàn chuôi dao; rèn thân dao; đánh sống dao và tạo mũi dao; đánh bản dao; tạo lưỡi dao... 

Người Hmông vùng Bắc Kạn cũng rất giỏi nghề rèn và có nhiều cách tôi sắt khác nhau. Nhiệt để tôi sắt không dùng than đá mà dùng than của một loại cây bản địa mọc trên núi đá nên gỗ rất chắc, than rất đượm. Có loại sắt tôi bằng nước muối vừa phải, có loại tôi bằng nước vắt ra từ thân cây chuối và cũng có loại tôi bằng dầu nhớt. Quan trọng nhất là nhìn màu thép khi tôi. Nước tôi màu hồng là non, màu đỏ là già. Khi đã làm nguội thì màu xanh hoặc tím là non, màu vàng là vừa, màu trắng bạc là già. Người thợ phải biết cách xem loại sắt để chọn cách tôi. Dao, cuốc và cày của người Hmông làm ra được coi như một công cụ quý vì nó đạt tới độ bền cao, lại rất sắc. Con dao của người Hmông được coi là có linh hồn, được cho nó ăn tết và nghỉ ngơi như người. Ông Giàng Á Sanh, người Hmông, chủ lò rèn ở thôn Chẻ Pang thuộc xã Cao Tân (huyện Pác Nặm) tự hào nói: dao Hmông dắt vách nhà hàng chục năm không rỉ; lưỡi cày thì có thể lật đá, chặt rễ cây to… 

Ông Nguyễn Trọng Tính, thợ rèn ở làng Đa Sỹ phường Kiến Hưng quận Hà Đông (Hà Nội) thì cho biết: Để tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt rất công phu, khâu quan trọng, đòi hỏi nhiều kỹ thuật nhất là tôi thép và làm nguội. Đầu tiên, những người thợ sẽ cắt các bản sắt thành hình dạng của sản phẩm, sau đó cho lên lò nung với nhiệt độ hơn 1.000 độ C. Tùy vào từng loại nguyên liệu thép và sản phẩm tạo ra dày mỏng mà thời gian nung sẽ khác nhau. Khi phôi thép nung chuyển sang màu đỏ trắng là đến lúc đặt lên đe để quai búa”. 

Về kỹ thuật quai búa thì phải kể đến tuyệt kỹ của người Nùng An. Họ chỉ giơ búa lên rồi hạ xuống một cách nhẹ nhàng (không quai búa ra đằng sau) nhưng vẫn bảo đảm đủ lực tối đa cho một nhát đập. Tiếng quai búa của người Nùng An không chí chát nặng nhọc mà lanh tanh nhẹ nhàng. Đặc biệt, nếu như ở vùng khác khi quai búa thường chỉ hai tay búa là một búa tạ, một búa con cùng đập cho một phôi sắt trên đe thì ở đây người ta có thể cùng lúc có tới bốn tay búa, gồm một tay búa con cầm chịch và ba tay búa tạ. Các tay búa giơ lên đập xuống rất nhịp nhàng, đều đặn, đan xen nhau, rèn mà như múa.

 
 
 
 

Theo PGS.TS Lại Văn Tới (Viện nghiên cứu Kinh thành), những ghi chép của thư tịch Trung Quốc và Việt Nam kết hợp thêm với các truyền thuyết dân gian sưu tầm tại vùng Cổ Loa cho biết về một nhân vật có nhiều tên gọi khác nhau: Cao Lỗ, Cao Thông hoặc Đô Lỗ, Thạch Thần – người đã tham gia hàng ngũ tướng lĩnh của vua An Dương Vương thời xưa và là người đã chế tạo ra nỏ thần, một loại vũ khí bằng kim loại có khả năng sát thương cao khiến kẻ thù khiếp sợ, phải tìm mọi âm mưu, thủ đoạn để giành lấy. 

Truyền tích kể rằng sau khi rời bỏ kinh thành do không thành công trong việc can gián An Dương Vương đừng quá ỷ vào nỏ thần, đừng kết thông gia với Triệu Đà và cho Trọng Thủy sang ở rể, Cao Lỗ đã đi chu du thiên hạ, về đến vùng Cao Xá (huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An) thấy có mỏ sắt nên dừng chân tại đây và dạy dân khai thác quặng sắt, lập lò rèn chế các dụng cụ nông nghiệp để mở rộng canh tác. 

Cũng có tích khác cho rằng khi An Dương Vương thua trận chạy về phía Nam tới vùng Diễn Châu (Nghệ An), Cao Lỗ đã đi theo để bảo vệ vua. Khi An Dương Vương chém Mỵ Châu rồi nhảy xuống biển ở Mộ Dạ, Cao Lỗ tiếc thương nên lưu lại, thấy có quặng sắt nên lập lò rèn ở đây. Sau đó, vùng này phát triển thành tổng Cao Xá, gồm nhiều làng. Trung tâm vùng là làng Nho Liêm ngày nay. Cao Lỗ được nhân dân lập đền, tôn thờ làm thành hoàng, với tên hiệu là Lư Cao Sơn. Ở đây, ông được coi là thánh tổ của nghề rèn. Hằng năm, cứ đến ngày rằm tháng giêng, dân làng Nho Liêm lại tổ chức lễ tế ông.

Kết quả khai quật và nghiên cứu khảo cổ học vùng Diễn Châu - Nghệ An đã cho thấy khu vực này có nhiều hiện vật sắt, lò luyện và rèn sắt. Dấu vết của lò luyện sắt còn hiện rõ ở đây là những nền cát bị nung đỏ, hình tròn, đường kính chừng 30 cm, chiều cao 20 - 25 cm, tường lò được đắp bằng đất sét trộn với trấu hoặt bã thực vật băm, nghiền nhỏ, đáy lò được kê bằng những viên đá to. Xung quanh lò, phát hiện nhiều cục quặng hoặc giọt xỉ sắt, than. Trong diện tích không lớn, đã phát hiện dấu tích 6 lò luyện sắt. Với quy mô lớn và mật độ tập trung cao, khá chuyên biệt và tách khỏi nông nghiệp, có thể phỏng đoán rằng sản phẩm của các lò đúc, lò rèn này không chỉ đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt tại chỗ mà còn lưu thông, giao lưu, trao đổi với cư dân ở các lưu vực sông Mã, sông Chu, sông Lam, không loại trừ khả năng vươn ra phía bắc tới tận lưu vực sông Hồng.

 
 
 
 

Như vậy, câu chuyện về An Dương Vương - tướng quân Cao Lỗ - nỏ thần - mũi tên thần - lò đúc mũi tên và nghề rèn, đúc ở Diễn Châu có một sự “xâu chuỗi” nào đó. Hơn thế nữa, hai làng rèn nổi tiếng ở tỉnh Nam Định là Bảo Ngũ (nay thuộc xã Quang Trung huyện Vụ Bản) và Vân Chàng (nay thuộc xã Nam Giang huyện Nam Trực) đều có nguồn gốc từ Nho Liêm. Người ở Vụ Bản xưa vào Nho Liêm để học nghề - làm ăn, lập ra xóm nhỏ đặt là Thiên Bản (Thiên là di chuyển, biến thiên - từ Vụ) để nhớ quê. Trong đền thờ thánh tổ Lư Cao Sơn ở làng Bảo Ngũ ngày nay còn có câu đối ghi:

Cao Sơn xuất thế tự Nho Lâm, hộ quốc giáo dân thiên cổ tại
Lư hóa công ân ư Thiên Bản, văn chương ngọc phả vạn niên tồn.
Tạm dịch:
Cao Sơn ra đời ở Nho Lâm, giúp nước, dạy dân còn mãi ngàn đời
Lò sáng công ơn miền Thiên Bản, văn chương, ngọc phả ghi đã vạn năm.

Ở phía Nam, tương truyền vị tổ làng rèn Tây Phương Danh (phường Đập Đá, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định) là Đào Giả Tượng. Ông là người từ miền Bắc vào khai hoang lập làng và mang theo nghề rèn. Như sử sách đã ghi lại, những người thợ rèn đầu tiên của Phương Danh đã làm ra dao, cuốc, liềm, mác và cả lưỡi cày cho những bàn tay lao động cần cù khai phá vùng đất Cỏ Thơm - một địa danh huấn luyện ngựa của nhà Tây Sơn, sau đó là làng ven kinh thành Hoàng Đế của triều đại Tây Sơn. 

Trong ngôn ngữ thể hiện mọi cung bậc tình cảm của dân Việt, không ít hình ảnh của nghề rèn đã được sử dụng. “Mọt không ăn được cứt sắt” là thành ngữ quen thuộc hàm ý chê bai những kẻ ki bo, kẹt xỉ mà trong đó, cứt sắt chính là những vụn sắt thải ra trong quá trình rèn. Hình ảnh người thợ rèn phải kéo bễ rất vất vả, ồn ào mới đốt cháy được than thành ngọn lửa mà nung sắt để rèn cũng được đem ra so sánh khi cười cợt tật xấu “ngáy to như kéo bễ”. Rồi “trên đe dưới búa” - hình ảnh mô phỏng công việc dàn sắt của người thợ rèn - thường được cất lên khi gặp phải tình huống khó xử trong cuộc sống, kiểu như bị kẹt giữa hai luồng áp lực… Những điều này cho thấy nghề rèn quả thật vô cùng gắn bó và thân thuộc với cuộc sống của người Việt.

ĐỖ QUANG TUẤN HOÀNG