Tương phản với đoạn đường qua Dốc Miếu, con đường trước khi qua sông Hiền Lương chạy thẳng tắp giữa cánh đồng lúa chín gợi một cảm giác thật bình yên. Kiều Vân đã bừng tỉnh khi xe qua cầu. Những bóng tre xòa cành trên dòng sông xanh biếc như níu đôi bờ gần lại. Thật khó tưởng tượng, mới ngày nào, đây là một vùng trắng dày đặc đạn bom. Bây giờ, người qua đây lần đầu, nếu không có ai nhắc nhớ, sẽ không biết mình vừa đi qua một chứng tích đau thương mà cũng ghi dấu biết bao chiến công của đồng bào và chiến sĩ đôi bờ Hiền Lương…
Sau khi qua cầu một quãng ngắn, chiếc xe rẽ theo con đường đất đỏ đi về phía đông. Gần chục ki-lô-mét gần như song song với sông Bến Hải, con đường khiêm tốn mà vẫn rành rẽ kẻ một lối đi giữa cánh đồng lúa đang mùa gặt rộ, rồi vươn lên những đồi đất đỏ, nhiều quãng cây lá giao cành, che kín cả mặt đường. Và thật bất ngờ, tất cả những gì che chắn trước tầm mắt bỗng vụt biến mất.
- Ồ! Biển đẹp quá!
Đã biết trước, vậy mà khi biển Cửa Tùng hiện ra trước mắt, ai cũng thốt ồ lên vì ngạc nhiên và thích thú. Cửa sông hẹp và mặt biển bao la; những mô đá đen sần sùi và dải cát trắng mịn màng; biển xanh ngắt và triền đất đỏ màu mỡ… Những nét tương phản ấy đã tạo nên vẻ đẹp Cửa Tùng. Không chỉ có thế, Cửa Tùng còn là một vùng đất đầy những huyền thoại…
***
Trưa, trong căn nhà một người dân, tôi chợp mắt được giây lát thì bừng tỉnh. Có tiếng rì rầm ngoài biển, lẫn trong tiếng gió biển thổi vào mát rượi. Thì ra cụ Lừng đang vừa vá lưới, vừa kể chuyện “ngày xưa” cho bố con Kiều Vân nghe. Câu chuyện kể rằng:
“Ngày ấy, vùng đất bên Cửa Tùng chưa có một bóng người. Những Mũi Si, Mũi Hàu – chân dãy Trường Sơn xoải ra biển, còn là rừng rậm. Hươu, nai, lợn lòi và cả cọp nữa là những “du khách” thường xuyên ở đây. Một đêm, có hai mẹ con cọp xám ra nằm hóng mát trên bờ đá Mũi Hàu. Mặc cọp mẹ can ngăn, cọp con muốn trổ tài, ra nằm sát tận mép sóng. Những cơn sóng từ khơi xa thỉnh thoảng lại tung bọt trắng lên vách đá. Cọp con thích thú liếm vị mặn trên lưng, không biết là thủy triều đang lên và trời nổi cơn gió đông. Một cơn sóng dâng cao trùm lên tảng đá và cuốn luôn chú cọp xuống biển. À không, may quá! Dưới chân cọp con không phải là biển sâu vô tận mà là một vật cứng. Một tảng đá… Ờ, nhưng sao nó lại di động và trơn bóng thế này? Chắc là vì chú cọp say sóng, và nước biển mặn làm đá nổi dập dình. Kìa! Tảng đá như có những mái chéo đưa nó dần ra khỏi bờ. Trời! Thì ra hòn đá ấy là lưng một con ba ba! Con ba ba xem ra quyết “chơi” quý tử của vị chúa sơn lâm một vố nhớ đời! Đừng có tưởng đã là “chúa” ở rừng thì muôn loài đều phải cúi lạy. Mặt biển cứ “vô tư” nổi sóng không ngừng…
Cọp con biết thế nguy, hốt hoảng hướng vào bờ cầu cứu mẹ. Lần đầu, chú thấy mình thật là bé nhỏ và yếu ớt trước biển cả hùng vĩ, khắp thân mình run lên, bốn chân dù có móng sắc mà đã mấy lần suýt trượt khỏi lưng con ba ba. Cọp mẹ cũng đã nhận biết đứa con ngỗ nghịch của mình đang mỗi lúc một xa bờ, tính mạng ngàn cân treo sợi tóc. Bà chúa sơn lâm cuống quýt chạy lui, chạy tới trên những mô đá ướt sũng bọt nước biển một hồi, vẫn chẳng nghĩ ra kế gì hay; chỉ còn cách tỏ thái độ bằng một tiếng gầm vang động cả mặt biển. Ba ba tưởng là Ông Trời nổi cơn thịnh nộ trước trò đùa giỡn của mình và cũng chẳng muốn bắt tội cọp con vốn chẳng có thù oán gì, nên lặn xuống sâu. Cọp con ngoi ngóp hướng vào phía bờ, thỉnh thoảng lại bị sóng nhận chìm. Đúng vào lúc chú kiệt sức phó mặc tính mạng cho biển cả thì cọp mẹ vượt sóng ra, cõng con vô bờ…
Vào cái thời biển Cửa Tùng còn trong cảnh hoang sơ ấy, khi trên đường từ Bắc vào Nam, câu ca “… sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang" còn làm chùn bước nhiều người thì gia đình ông Tùng lên ghe theo đường biển vào tìm đất sống ở phía Nam. Ông Tùng là một người giỏi võ nổi tiếng trong vùng. Ông chỉ muốn làm nghề chài lưới. Nhưng để đối phó với những cuộc khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, triều đình muốn dùng tài võ nghệ của ông để tiêu diệt đồng bào. Ông đành bỏ làng cũ ra đi. Không may, ghe đến ngang phía ngoài đảo Cồn Cỏ thì bão tố nổi lên. Những con sóng cao lừng lững như mái nhà chỉ chực nhấn chìm cả gia đình ông. Con thuyền nhỏ khi dựng đứng lên, khi chúc mũi vun vút lao xuống, rồi lại ngoi lên. Nhưng sức người có hạn, độ bền vững của thuyền có hạn; mà biển cả mênh mông giữa cơn bão lớn thì hung bạo vô cùng. Những con sóng đã bóp vỡ con thuyền. Hai vai ông Tùng mang hai cậu con trai, một bên nách cắp người vợ, cứ thế, ông lội dần vào bờ…
Đó là những con người đầu tiên đặt chân lên vùng đất Cửa Tùng. Ngay từ khi lật hòn đất đầu tiên lên, thấy màu đất đỏ màu mỡ, ông Tùng đã quyết định sinh cơ lập nghiệp ở đây. Ôi! Ông không ngờ một miền đất “ngon lành” thế này mà bấy lâu không ai biết. Thật khác xa triền đất cát bạc màu châu Bố Chính ngoài kia…
Chẳng bao lâu, tiếng lành đồn xa, dân tứ xứ tụ về quanh Cửa Tùng thành làng, thành xóm. Ông Tùng có thêm 4 cậu con trai nữa và thực sự được làm “ông”. Nhưng công việc làm ăn chẳng phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái. Biển sâu thật giàu có, nhưng đâu phải bỗng dưng báu vật của thiên nhiên tự dâng cho con người. Chính ông Lừng cũng có một đứa con suýt bị cá cuốn mất ra biển khơi…
***
Cụ Lừng tạm dừng câu chuyện, vào nhà bê ra một rổ khoai lang luộc và một ấm chè xanh. Đặc sản Cửa Tùng còn có những vườn tiêu lúc lỉu quả, hồi sáng chúng tôi đã được nếm thử khi ăn bát cháo còn nguyên vị biển. Cụ Lừng bẻ đôi củ khoai để lộ ra lớp bột trắng phau và đưa tận tay Kiều Vân, nhưng cô bé nào có thiết chi ăn uống, ngước đôi mắt đen nhánh nhìn cụ và hỏi:
- Dạ, ông vừa bảo cá suýt cuốn mất một đứa con… Chắc là sóng cuốn, chứ người ta câu cá, làm chi có chuyện cá lại cuốn được người ạ.
- Ầy, thế mới là chuyện ở Cửa Tùng. Cháu ăn khoai đi, rồi dần dần ông kể cho nghe. Còn chuyện bắt ba ba nữa…
- Dạ, cháu cũng đang định hỏi ông, con ba ba to bằng chừng nào mà mang nổi chú hổ con?...
- Ầy, đã bảo là chuyện ở Cửa Tùng mà... Cháu ăn khoai đi. Mà nhớ là phải có chén nước, chứ nếu không rồi phải vào ôm cột nhà đó… Cháu chưa nghe chuyện ăn khoai lắm bột quá, phải ôm cột nhà, rướn người lên, mới nuốt được à?... Vùng đất này nhiều chuyện lạ lắm. Rồi dần dần ông sẽ kể cho nghe. Giờ thì cháu ăn khoai đi, lấy sức mà theo các chú đi thăm địa đạo Vĩnh Quang…
Cụ Lừng đang vui, bỗng như nghẹn lời. Không phải vì khoai lắm bột. Củ khoai vẫn còn nguyên nơi tay cụ. Chính là vì ở địa đạo Vĩnh Quang sát bên Cửa Tùng, một người con trai của cụ đã vĩnh viễn bị vùi sâu dưới tầng đất đỏ quê hương, cùng với 60 đồng bào, chiến sĩ đôi bờ Hiền Lương trong cuộc kháng chiến vừa qua…
Chuyện người con trai của cụ đêm đêm vượt sông Hiền Lương sang tiếp viện cho cuộc chiến đấu bên bờ Nam, cũng như chuyện cụ Lừng vượt biển ra tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ thời chống Mỹ cũng đáng gọi là những huyền thoại bên Cửa Tùng.
Mấy ngày sau, trước khi trở lại Huế, Kiều Vân nhỏ nhẹ mà kiên quyết : “Đến kỳ nghỉ Tết, nhất định cháu sẽ rủ các bạn trong lớp ra Cửa Tùng!”
Còn tôi mong rằng ngành du lịch nên hướng dẫn du khách xuyên Việt, trước khi thăm Thành cổ Quảng Trị hay Cố đô Huế, nên ghé nghỉ lại Cửa Tùng. Để biết “dải đất hẹp” của đất Việt không chỉ có bom đạn hay cung điện vàng son… Chẳng phải ngẫu nhiên, ngày xưa vua Bảo Đại đã cho xây nhà nghỉ mát tại Cửa Tùng…
(Truyện ký rút từ bản thảo cuốn sách “Quảng Trị, vùng đất hội tụ" sắp in)