, //, :: GTM+7
Thứ Ba, 21/09/2021, 14:47

Lãi suất và đạo lý trong kinh doanh

BẢO VÂN thực hiện

Làn sóng Covid-19 thứ 4 chưa đến đỉnh, trong khi sức khỏe của doanh nghiệp đang dần kiệt quệ. Không có cách nào khác, các ngân hàng cần chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp bằng cách giảm lãi suất cho vay. TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương chia sẻ quan điểm với phóng viên.

TS Nguyễn Đình Cung

Thưa TS, là người luôn theo dõi sát sao môi trường kinh doanh và tình hình hoạt động của cộng đồng doanh nghiệp Việt, ông thấy dịch Covid-19 đã tác động thế nào đến “sức khoẻ” doanh nghiệp?

TS Nguyễn Đình Cung: Dù rằng con đường kinh doanh của đa số doanh nghiệp Việt nhìn chung vẫn luôn “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh”, nhưng dịch Covid-19 cộng với những hạn chế cố hữu thực sự đã bào mòn sức khỏe của doanh nghiệp, khiến cho họ ở vào một thời kỳ khó khăn chưa từng có kể từ khi có Luật Doanh nghiệp đến nay.

Theo kết quả của một số cuộc khảo sát trong năm 2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 81% doanh nghiệp được hỏi gặp khó khăn do không có khách hàng, đơn hàng hoặc hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ; 72% gặp khó khăn trong việc đảm bảo tiền trả lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, kinh phí công đoàn; 53% số doanh nghiệp gặp khó khăn về trả lãi vay ngân hàng…

Hệ thống đăng ký doanh nghiệp của Bộ này cũng ghi nhận số lượng doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2020 đã giảm 2,3% so với cùng kỳ năm 2019 (trong khi đó ở tất cả các năm trước đó đều tăng với tốc độ cao); trong khi số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng mạnh. Tính đến tháng 12 năm 2020, cả nước có 32,1 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19, trong đó 69,2% người bị giảm thu nhập, số còn lại phải nghỉ việc hoặc giảm giờ làm, nghỉ giãn việc, nghỉ luân phiên…

Đáng lưu ý, có 53% số doanh nghiệp tham gia khảo sát cho biết họ gặp khó khăn về trả lãi vay ngân hàng, cả gốc lẫn lãi. Trong khi đó, cả năm 2019, 2020 và đầu 2021, một số ngân hàng vẫn báo lãi rất lớn, nổi lên như VietinBank, Vietcombank, MSB, TPBank, SeABank… Hết quý 1-2021, hàng loạt ngân hàng tiếp tục báo cáo lợi nhuận trước thuế tăng gấp nhiều lần so với cùng kỳ. Ông nghĩ sao về thông tin này?

Cũng phải nhìn nhận là một số ngân hàng vừa qua đã có thêm các mảng phi tín dụng như dịch vụ, kinh doanh ngoại hối, đầu tư chứng khoán... Nhưng đáng lưu ý hơn cả là nguyên nhân chính dẫn đến những khoản lãi “khủng” này là do lãi suất huy động đã giảm khá sâu, trong khi lãi suất cho vay chưa giảm tương xứng. Đây là điều bất hợp lý, khó chấp nhận.

Ý ông là ngành ngân hàng chưa đồng hành, chia khó cùng doanh nghiệp?

Đúng thế. Trong bối cảnh nền kinh tế gặp khó khăn như hiện tại, doanh nghiệp thì kiệt quệ, không có nguồn thu như hiện nay mà các nhà băng vẫn lãi lớn thì có vấn đề.

Trung tuần tháng 6, nhiều ngân hàng thông báo áp dụng giảm lãi suất. Ở kỳ hạn vay 6 tháng và 1 năm, mức lãi suất giảm phổ biến từ 0,2 - 0,5%. Ngân hàng hoạt động với mục tiêu lợi nhuận, vì thế, nếu ngân hàng áp dụng lãi suất không hợp lý, họ cũng sẽ không cho vay được. Vậy thực chất “vấn đề” ở đây là gì, thưa ông?

Mức giảm như thế là ít và chậm hơn mức giảm lãi suất huy động. Nền kinh tế của ta có mức độ phụ thuộc vào tín dụng rất lớn, xét cho cùng là phụ thuộc vào mấy chục ngân hàng, nhất là một số ngân hàng lớn có khả năng cầm chịch lãi suất. Cộng đồng doanh nghiệp thì đa phần nhỏ và chưa mạnh, luôn luôn là bên lép vế trong mối quan hệ giữa người đi vay và kẻ cho vay.

Thông thường những cuộc “khủng hoảng” kinh tế gần đây xuất phát từ tài chính, rồi lan sang kinh tế. Nhưng lần này, điểm khác biệt là xuất phát từ y tế. Cú sốc y tế khiến cho dòng tiền bị hút sang những chỗ “trú ẩn” khác, bất động sản chẳng hạn, khiến cho vốn càng khan hiếm hơn và các nhà băng càng chiếm thế thượng phong so với “thượng đế” của họ. Thế nhưng dường như các ngân hàng đã quên mất rằng, trong những năm 2011-2015, khi cơn bão nợ xấu tàn phá ngành ngân hàng, có lúc nợ xấu lên tới 15 - 17%, đẩy lãi suất cho vay lên cao đến mức sát thương (trên 20%/ năm), thì doanh nghiệp và người dân đã cùng ngân hàng chia sẻ gánh nặng đó. “Cục máu đông” nợ xấu khiến cho nhiều ngân hàng đứng trên bờ vực phá sản thì nhà nước (một cách gián tiếp) và doanh nghiệp - lực lượng gửi/ vay tiền chủ yếu - đã gánh chịu phần lớn chi phí để giải tỏa, khắc phục hậu quả.

Ở đây, không thể bỏ qua khía cạnh đạo lý trong kinh doanh. Nếu cứ để tồn tại sự bất công quá lớn về thu nhập giữa khu vực ngân hàng với khu vực kinh tế trực tiếp sản xuất kinh doanh thì rất khó để vực dậy nền kinh tế một cách bền vững. Chính phủ nên có chỉ đạo hợp lý buộc các ngân hàng giảm lãi suất cho vay phù hợp với lãi suất huy động.

Tôi cho rằng khi ngân hàng khó khăn thì cả xã hội đã chia sẻ và bây giờ chính là lúc ngân hàng cần làm điều ngược lại.

Còn thị trường chứng khoán, với vai trò là một kênh dẫn vốn thì sao, thưa ông?

Đây là một câu chuyện dài khác. Nhưng nói ngắn gọn thì tôi cho rằng sự phát triển “nóng” của thị trường chứng khoán thời gian qua không giúp ích gì nhiều cho các doanh nghiệp đang khát vốn sản xuất kinh doanh. Bởi vì có rất ít doanh nghiệp IPO, mà chỉ có vốn thu về khi IPO mới là vốn thực sự chạy vào sản xuất kinh doanh, còn phần lớn đều là loanh quanh mua đi bán lại trên thị trường để kiếm lời nhanh; trong đó có một tỷ lệ không nhỏ là vốn tín dụng. Ngay cách gọi “chơi chứng khoán” cũng cho thấy bản chất đó. Dù không thể ngăn chặn hoàn toàn, song tôi cho rằng để nền kinh tế phát triển mạnh khỏe, cần có những giải pháp để nắn chỉnh dòng vốn chảy vào khu vực sản xuất kinh doanh thực sự, không để tín dụng chạy vào chứng khoán hay bất động sản. Cụ thể như thế nào ở thời điểm hiện nay phụ thuộc vào nghệ thuật điều hành của người quản lý, nhưng về lâu dài thì vẫn phải là giúp cho các doanh nghiệp lớn mạnh lên, trở nên hấp dẫn hơn và IPO thành công.

Xin cảm ơn ông.

Tags

Bình luận

Xem nhiều





Nổi bật
Được quan tâm






Đăng ký nhận tin nóng
Giúp bạn cập nhật các thông tin mới nhất