Dừng lại bên đường, tôi chăm chú nhìn lên cây mận đang mùa quả chín. Ông Năm Khánh không còn nhận ra tôi. Mãi đến khi tôi nhắc chuyện ngày xưa ăn trộm mận nhà ông thì ông mới “à” lên một tiếng, rồi gật đầu: “Thằng cu Phát nay đã lớn thế này rồi sao”! Tôi bẽn lẽn, gãi đầu, cười và tò mò hỏi: “Cây mận chín đỏ thế kia mà sao ông không hái bán”? Ông thở dài, thủng thẳng đáp: “Có ai đâu mà hái. Vợ chồng tôi giờ già yếu rồi, không thể hái hay đi chợ xa như ngày xưa được”.
Tôi lặng thầm nghĩ đến cái ngày xửa ngày xưa của mình… Ngày ấy, khi cây mận nhà ông năm Khánh ra lứa quả bói đầu tiên, những đứa trẻ xóm tôi mới lên 7, lên 10 tuổi. Mặt mũi đứa nào cũng lấm lem bùn đất, vậy mà chẳng đứa nào thấy khổ, thấy mệt. Chúng tôi vẫn tí toét cười, vẫn mơ ước tương lai tươi sáng qua từng trang sách, vẫn tinh nghịch những trò tai quái đến mức làng trên xóm dưới hầu như chẳng ai không biết, không để ý đến mỗi lần có cây trái gì trong vườn chuẩn bị chín.
Hè năm ấy, cây mận nhà ông Khánh bắt đầu líu díu những chùm hoa trắng tinh, đưa hương thơm thoảng mỗi khi chúng tôi đi học về ngang qua. Hoa lốm đốm ẩn hiện trong từng đám lá màu xanh đậm để lộ những cuống nhị nhỏ, dài, cắm chổng lên trời (trông giống như tóc của đám trẻ con nhà quê chúng tôi, đứa nào cũng húi quanh đầu trọc nhẵn, chỉ để lại một chỏm ở đỉnh đầu). Mỗi lần chỉ cần cơn gió nhẹ thổi qua là nhị hoa rụng trắng như trải thảm dưới gốc cây.
Rồi một ngày, những chùm mận màu hồng đậm bắt mắt với làn da bóng mẩy, căng tròn cũng bắt đầu lộ diện. Nghe phong phanh ông Khánh bật bí với hàng xóm rằng, cây mận này, quả không hột, ngọt lịm càng khiến cả bọn thêm thèm thuồng. Ngày nào đi học về ngang qua nhà ông Khánh, chúng tôi đều lén nhìn lên cây mận, đứa nào đứa ấy nhìn nhau, tủm tỉm cười ra vẻ đã hiểu ý. Và thế là chúng tôi liền chuẩn bị cho kế hoạch đi “chôm” mận nhà ông.
Buổi trưa đầu hè, gió hiu hiu thổi. Khi cả xóm đang chìm vào giấc ngủ sau buổi làm đồng về mệt nhọc thì cũng là lúc lũ trẻ tinh nghịch chúng tôi lần mò tới gốc mận vườn nhà ông Khánh. Đứa trèo, đứa rung, đứa hứng, đứa nhặt… Bỗng tiếng chó sủa vang. Cả bọn chúng tôi ba chân bốn cẳng chạy tán loạn. Dù thế, ông Khánh vẫn kịp nhận ra từng đứa.
Nhưng ông chẳng sang nhà mắng vốn liền. Chờ cho chúng tôi đánh chén xong những quả mận đầu mùa chín ửng, ngọt lịm. Chờ cho chúng tôi tưởng như ông đã bỏ qua và ung dung cưỡi trên lưng trâu về nhà, chễm chệ hát líu lo những bài ca yêu đời. Lúc đó, chúng tôi, đứa nào đứa nấy mới “được thưởng” một trận đòn roi có bài có bản của ba và tiếp theo là “ba mươi phút dân ca và nhạc cổ truyền” từ “chiếc loa phóng thanh” của mẹ! Thế nhưng cũng chỉ được vài ba hôm, chúng tôi lại ngựa quen lối cũ…
Và rồi những lần sau, khi thấy chúng tôi lò dò đến “hỏi thăm” cây mận, ông Khánh chỉ nhẹ nhàng đánh tiếng nhắc nhở: Coi chừng ngã. Đừng rung cây mạnh, kẻo quả sẽ rơi hết. Ông còn chuẩn bị sẵn cho chúng tôi cây sào có cái túi vải cột vào. Hái được quả nào, ăn quả nấy mà không bị rơi, bị dập. Chúng tôi, đứa nào cũng cười tí toét, vì từ đó được ông cho ăn mận thỏa thích. Và cũng nhờ cây mận nhà ông Khánh mà lần đầu tiên trong đời, bài văn miêu tả về một loài cây ăn quả mà em yêu thích của tôi đã được điểm 9. Nhớ lại, đến giờ tôi vẫn còn thấy sướng rơn!
Đến giờ, cây mận vẫn chi chít quả. Vậy mà có đứa trẻ nào muốn hái, muốn ăn đâu! Nghe ông Khánh nói, lòng tôi bỗng rưng rưng xúc động về một thời thơ dại đã qua.