Có một hình ảnh rất đáng chú ý được ghi tại xã Tam Thanh (Tam Kỳ, Quảng Nam) trong ngày 27/10 vừa qua: nhiều hộ dân đưa những túi ni lon chứa đầy nước sạch lên mái nhà để gia cố mái tôn đối phó với gió bão. Đây cũng sẽ là nguồn cung cấp nước sạch cho gia đình trong những ngày nước lụt.
Người dân trữ nước sạch để sinh hoạt và tưới tiêu. |
Hiểm họa từ nước ô nhiễm
Quả thực đó là một hình ảnh thật ấn tượng về an ninh nguồn nước dưới biểu hiện của nghịch lý thừa - thiếu nhỡn tiền. Nước mênh mông dưới chân, mà người dân thì khát. Nhưng nước sạch cho người dân nông thôn vẫn luôn là một vấn đề lớn lâu nay, chỉ nổi lên gay gắt hơn trong những ngày chịu ảnh hưởng của thiên tai thảm hoạ vừa qua mà thôi.
Kết quả giám sát của Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội vừa được trình ra kỳ họp thứ 10 của Quốc hội cho biết, Việt Nam được xếp vào danh sách những nước có tình trạng an ninh nguồn nước đáng báo động, nhất là ở khu vực nông thôn. Không chỉ thiếu nước cục bộ, nước nhiễm mặn… mà tình trạng vệ sinh nguồn nước ở nhiều khu vực cũng không đảm bảo.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả nước đã có 84,5% người dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Trong đó, vùng có số dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh cao nhất lần lượt là Đông Nam bộ với 94,5%, Đồng bằng sông Hồng 91% và Đồng bằng sông Cửu Long 88%. Tỷ lệ số dân được tiếp cận nước hợp vệ sinh thấp nhất ở vùng Bắc Trung bộ 81% mặc dù đây là vùng có số hộ ở nông thôn cao thứ 4/7 vùng trong toàn quốc.
Còn theo thống kê từ Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên và Môi trường, mỗi năm, Việt Nam có khoảng 9.000 người tử vong do nguồn nước và vệ sinh kém, gần 250.000 người nhập viện vì bị tiêu chảy cấp bởi nguồn nước sinh hoạt bị ô nhiễm, khoảng 200.000 người mắc bệnh ung thư mỗi năm mà một trong những nguyên nhân chính là do ô nhiễm nguồn nước. Nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) về tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em Việt Nam mới đây cảnh báo, hiện có khoảng 44% trẻ em bị nhiễm giun và 27% trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng mà nguyên nhân chính là do thiếu nước sạch và điều kiện vệ sinh kém. Bên cạnh đó, có khoảng 21% dân số đang sử dụng nguồn nước bị nhiễm Asen.
Trong khi áp lực gia tăng dân số và phát triển kinh tế ngày càng lớn, tài nguyên nước bề mặt tương đối dồi dào, nhưng do khả năng xử lý nước thải sinh hoạt còn rất xa mới đáp ứng được nhu cầu (chỉ xử lý được 10 - 11% nước thải ở đô thị; tỷ lệ này ở nông thôn còn thấp hơn) nên nước mặt ở nhiều vùng bị ô nhiễm nặng. Nước ngầm cũng đang trở nên ô nhiễm và bị khai thác quá mức. Thậm chí, do không khí ô nhiễm, cùng với việc thu hứng không đảm bảo, nên ngay cả nguồn nước mưa hiện nay cũng chưa thật sự đảm bảo an toàn.
Giải pháp lâu dài và trước mắt cho nước sạch nông thôn
Mặc dù thời gian qua, nhiều công trình cấp nước sạch nông thôn đã được đầu tư xây dựng từ nhiều nguồn vốn khác nhau, song việc kiểm soát, giám sát vận hành công trình cũng như chất lượng nước khu vực nông thôn vẫn còn rất hạn chế, nhất là ở khu vực nông thôn miền núi với các hệ thống cấp nước quy mô nhỏ. Cả nước hiện có 16.342 công trình cấp nước tập trung, thì chỉ có 33,5% công trình bền vững, còn lại 37,5% hoạt động trung bình, 16,7% hoạt động kém hiệu quả và 12% không hoạt động. Vùng núi và Tây nguyên có tới 45,2% công trình cấp nước tập trung hoạt động kém hiệu quả hoặc không hoạt động, tiếp đó là miền núi phía Bắc với tỷ lệ 34,8% và đồng bằng sông Hồng là 18,1%.
Báo cáo trả lời kiến nghị cử tri của Bộ Tài chính vừa gửi đến Quốc hội để phục vụ kỳ họp thứ 10 cho biết, theo cử tri một số tỉnh, thành, việc quản lý, sử dụng và khai thác công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung theo các thông tư hiện hành (Thông tư số 54/2013/TT-BTC ngày 04/5/2013 và Thông tư số 76/2017/TT-BTC ngày 26/7/2017 của Bộ Tài chính) có nhiều nội dung không còn phù hợp. Cử tri tỉnh kiến nghị Chính phủ ban hành nghị định mới về quản lý, sử dụng và khai thác công trình cấp nước sạch nông thôn hoặc Bộ Tài chính ban hành thông tư hướng dẫn thay thế các thông tư nêu trên để phù hợp với quy định tại Luật Quản lý, sử dụng tài sản công. Với đặc thù của tài sản là có giá trị không lớn nhưng phân bố rải rác ở tất cả các vùng miền trong cả nước, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân, trong khi ý kiến tham gia (nhất là của các địa phương) chưa tập trung, các giải pháp đề xuất quản lý có sự khác biệt lớn giữa các địa phương, vùng miền, Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Xây dựng đã 2 lần xây dựng dự thảo Nghị định quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng cấp nước sạch (dự kiến sẽ trình Chính phủ trong tháng 11/2020).
Người dân huyện Châu Thành tỉnh Bến Tre tìm hiểu về túi trữ nước ngọt. |
Trước mắt, việc quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng cấp nước sạch nông thôn tập trung được giữ như hiện trạng. UBND các tỉnh có trách nhiệm theo dõi, chỉ đạo việc quản lý, vận hành công trình bảo đảm thông suốt, hiệu quả, tránh thất thoát tài sản công cho đến khi các quy định mới được ban hành và được Chính phủ chấp thuận.
Trong lúc chờ đợi những quy định mới và khi những công trình cấp nước sạch chưa phủ kín được đến mọi vùng nông thôn Việt Nam, những chiếc giếng khoan, giếng đào truyền thống vẫn tiếp tục là nguồn cung cấp nước sinh hoạt quan trọng theo tiêu chuẩn “hợp vệ sinh”. Tuy nhiên, giếng khoan, giếng đào cần được khai thác và quản lý đúng cách. Việc khai thác nước ngầm quá mức gây ra hiện tượng suy giảm mực nước ngầm, gây ô nhiễm môi trường, sụt lún. Trong khi đó, nhiều giếng không sử dụng do không có nước hay hư hỏng lại trở thành những “đường dẫn ô nhiễm” xuống tầng nước ngầm. Bên cạnh đó, nếu sử dụng nguồn nước này, rất cần trang bị những thiết bị và giải pháp đơn giản, ít tốn kém để xử lý nguồn nước bị nhiễm phèn, nhiễm Asen, khuẩn Ecoli… để đảm bảo chất lượng nước, đảm bảo sức khỏe cho người sử dụng.