, //, :: GTM+7
Thứ Bảy, 05/02/2022, 11:00

Về ngôi làng “cách biển nửa ngày sông” của Tế Hanh

TRẦN ĐĂNG
(laodong.vn)
Mãi đến khi vào đại học tôi mới tiếp cận được trọn vẹn bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh.
Sông Trà Bồng- “con sông quê hương” của Tế Hanh. Ảnh: Trần Đăng

Tôi nhớ hồi còn học phổ thông vào những năm đầu sau ngày đất nước thống nhất, chúng tôi chỉ biết có mỗi bài “Nhớ con sông quê hương” của ông thôi, nhưng cũng chỉ là phần “đọc thêm”. Cả hai bài thơ trên đều viết về cái làng chài Đông Yên thuộc xã Bình Dương huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi của nhà thơ.

Riêng với bài thơ “Nhớ con sông quê hương”, cũng có thể mỗi người yêu thơ đều “thấy” con sông của chính quê mình trong những năm đất nước bị chia cắt chứ không chỉ là con sông Trà Bồng chảy ngang qua làng chài của Tế Hanh. Nhưng con sông trong bài “Quê hương” thì đích thị là sông Trà Bồng chảy qua làng chài Đông Yên rồi, không lẫn với một dòng sông nào khác.

Sở dĩ đến khi học đại học (văn), tôi mới tiếp cận đầy đủ bài thơ “Quê hương” là vì những năm sau 1975, nhiều người vẫn còn rất ngại khi đề cập đến các tác phẩm văn học trước 1945, nhất là những tác phẩm được xếp vào dòng “văn học lãng mạn”.

Sự dè dặt ấy khiến toàn bộ những tác phẩm nổi tiếng của các nhà thơ thời “lãng mạn” đều bị đặt sang một bên. Tôi thì lại ở vùng thôn, hoàn toàn không có điều kiện để tiếp cận với các loại sách xuất bản trước năm 1975.

“Quê hương” của Tế Hanh cũng nằm trong hoàn cảnh ấy, dù toàn bộ bài thơ không hề nói lên một chút “tiểu tư sản” nào. Thậm chí, đây là một trong số không nhiều bài thơ đã trực tiếp nói về số phận lam lũ của những ngư phủ ở một làng chài miền Trung.

Khi đọc bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh, tôi cứ thắc mắc mãi mà không sao lý giải được câu này: “Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”. Vì hầu như làng chài nào cũng ở cạnh biển, thậm chí những ngư phủ chỉ cần bước ra khỏi con thuyền neo đậu ở bến quê là họ có thể đặt chân lên ngôi nhà của mình rồi. Nhưng cái làng Đông Yên lại “cách biển nửa ngày sông”, lạ chưa?

Cho đến năm 1991, tôi có dịp lần đầu tiên đặt chân lên làng chài này, ghé thăm ngôi nhà mà Tế Hanh đã cất tiếng khóc chào đời năm 1921 thì mới vỡ lẽ những điều lâu nay mình không tài nào lý giải được kia.

Đi một vòng quanh xã Bình Dương mới biết, khác với những con sông ở Quảng Ngãi, sông Trà Bồng đến quê Tế Hanh thì đột ngột khựng lại như để “thăm dò”. Cú phanh đột ngột này đã tách con sông Trà Bồng ra làm hai nhánh. Làng Đông Yên của Tế Hanh bị các nhánh sông này “ôm trọn vào lòng”.

“Nước bao vây” là thế. Nhưng còn “cách biển nửa ngày sông”? Thì đây, một lão ngư ở làng giải thích: “Xưa ông bà chúng tôi đi đánh cá ngoài biển là cho ghe chạy dọc sông Trà Bồng đến cửa Sa Cần. Hồi đó làm gì có thuyền máy như bây giờ, toàn bộ là chèo bằng tay hoặc giương buồm lợi dung sức gió mà đi thôi. Từ Đông Yên mà ra đến cửa Sa Cần tầm 10 cây số đường sông nhưng ghe phải đi hết một buổi”.

Ra vậy. Một buổi là dân chài gọi, còn nhà thơ thì nói “nửa ngày sông”. Một cách ví von không như phép tính của toán học, chỉ có ở nhà thơ mà thôi. Sau này, Tế Hanh cũng có nhiều câu thơ mà ông ví von theo cách của mình, không lẫn với ai được. “Anh theo các phố đó đây/Thêm yêu Hà Nội vắng đầy cả em”.

Làng chài của Tế Hanh vừa “cách biển nửa ngày sông” nhưng cũng cách với những làng bên cạnh không chỉ “nửa ngày” mà có khi cách cả một mùa mưa lũ. Những nhánh sông được tạo ra ở cuối sông Trà Bồng đã biến nhiều làng quê vùng này thành những ốc đảo.

Đông Yên là ốc đảo, rồi Đồng Min ở phía đối diện cũng thế. Một cây cầu bắc qua sông Trà Bồng để Đông Yên “nối mạng” với những người hàng xóm ngay trong những ngày mưa lũ này là nỗi khao khát ngàn đời. Nỗi khao khát ấy đã được lớp con cháu của làng biến thành hiện thực.

Cách nhau chỉ 150m của đôi bờ sông thôi mà vời vợi nghìn trùng vào mỗi mùa mưa lũ. Bây giờ thì đôi bờ Đông Yên-Đồng Min đã không còn cách trở nữa sau khi cây cầu mới vừa bắc qua. Hôm khánh thành cầu, dân làng chài thấy một người phụ nữ đi qua đi lại cầu như một kẻ mộng du.

Đó là chị Nguyễn Thị Đáng, người đã gắn với bến đò Đồng Min cả chục năm nay. Hết chèo bằng tay chuyển sang bằng ghe máy, chị Đáng cứ thót tim mỗi bận đưa lũ học trò qua sông vào mùa mưa lũ.

“Cây cầu đã chính thức giải phóng cho tôi thoát khỏi nỗi ám ảnh về một bi kịch có thể xảy ra bất cứ lúc nào”- chị Đáng thú nhận niềm vui với khách tham quan cây cầu. Đò thì có một chiếc mà nhu cầu qua sông rất lớn, lại toàn việc cấp thiết nên nhiều khi người chèo đò đã phải “xé rào”.

Đã từng có những bi kịch xảy ra trên dòng sông này khi đò bị đắm nên hơn ai hết, chị Đáng thấm thía với sự xuất hiện của cây cầu nối đôi bờ Đồng Min- Đông Yên.

Tế Hanh đã đi xa hơn chục năm rồi. Ông không còn chứng kiến niềm vui òa vỡ của người dân quê ông khi có những cây câu bắc qua đôi bờ cách trở. Cũng như nước sông Trà Bồng thì vẫn vây quanh ngôi làng xinh xắn ấy nhưng khoảng cách với cửa Sa Cần không còn “nửa ngày sông” nữa nhờ vào máy móc hiện đại được gắn trên những con tàu cá.

Cuộc sống đã có những đổi thay. Niềm vui của người làng Đông Yên có thể đã khác trước. Nhưng “con sông quê hương” của nhà thơ thì vẫn róc rách chảy cùng năm tháng, như chưa bao giờ xưa cũ trong thơ.

Tags

Bình luận

Xem nhiều





Nổi bật
Được quan tâm



Nền thẩm mỹ bản địa đã mách bảo kiến trúc sư tặng một “link” bay bổng cho chủ nhà, mà nhìn qua, chỉ còn cách thốt lên hai chữ bồng bềnh.

Chưa khi nào nông dân thấy giá trị của rơm rạ như bây giờ, thu hoạch xong không đốt bỏ mà bán cho hợp tác xã, xử lý thành các sản phẩm đa dụng...


Đăng ký nhận tin nóng
Giúp bạn cập nhật các thông tin mới nhất