, //, :: GTM+7
Thứ Bảy, 27/04/2024, 01:10
 

Ông Hồ Xuân Hùng: Mới đây, Tổng hội NN&PTNT Việt Nam chủ trì Hội thảo Ứng dụng công nghệ AI trong nâng cao năng suất nông nghiệp, thu hút khoảng 200 khách mời từ 40 tỉnh/thành tham dự. Điều đó chứng tỏ, đây là một chủ đề đang nóng, thu hút sự quan tâm của rất nhiều người, đặc biệt những người quan tâm đến chuyển đổi số trong nông nghiệp. 

Mặc dù chúng ta đã nói về CĐS từ lâu nhưng để thành một đường lối mang tính quốc gia thì tới năm 2016, Thủ tướng Chính phủ mới ký Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, phấn đấu để Việt Nam trở thành quốc gia số. Từ đó tới nay, dù đã có nhiều thay đổi, nhưng nhìn chung, vẫn chưa làm được bao nhiêu. Là người đã và đang công tác trong ngành nông nghiệp, cá nhân tôi rất buồn về điều đó. Đất nước thống nhất đến nay cũng gần 50 năm; dân mình được đào tạo căn bản từ nước ngoài rất nhiều; mà sao CĐS trong nông nghiệp vẫn còn chậm quá. 

Ngày 22/4/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành tiếp Quyết định số 505/QĐ-TTg về Ngày Chuyển đổi số quốc gia mới thấy CĐS đã trở thành một yêu cầu ngày càng cấp thiết. Hay nói một cách khác, CĐS là bắt buộc. Nhưng có những giải pháp nào để CĐS đi vào thực chất, tránh những khẩu hiệu chung chung, hô hào, rất cần được bàn luận thật thấu đáo. 

 
 

Bà Lê Thị Dung: Là một doanh nghiệp về nông nghiệp, chúng tôi thực sự mong muốn từng bước được CĐS trong thời gian tới. Chúng tôi cũng có tìm hiểu những giải pháp công nghệ trong nước, nhưng đúng kiểu mò kim đáy bể. Bước vào “chợ” công nghệ, chẳng biết đường mà lần. Mới đây, khi nghe đoàn doanh nghiệp Hàn Quốc sang Việt Nam tìm cơ hội hợp tác và chuyển giao công nghệ trình bày về mô hình trang trại nông nghiệp thông minh, tôi thấy đó là một mô hình phù hợp, chạm đúng khát vọng của doanh nghiệp. Vì thế, CTCP đầu tư Công nghệ xanh đã ký biên bản ghi nhớ hợp tác với một doanh nghiệp của Hàn Quốc, để xây dựng một trang trại nông nghiệp thông minh tại xã Khánh Cư, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Thông qua sự hợp tác này, chúng tôi rất muốn được tiếp cận những công nghệ hiện đại nhất, để áp dụng vào sản xuất nông nghiệp, qua đó nâng cao giá trị sản phẩm, hi vọng mở được một vùng sản xuất mới, đưa nông sản của chúng tôi xuất khẩu được sang Hàn, Nhật, Mỹ. Hiện, chúng tôi đã tích cực làm việc với các cơ quan ban ngành của tỉnh Ninh Bình để gấp rút chuẩn bị cho cuộc làm việc chính thức giữa hai bên vào tháng 4 này.

PGS.TS Mai Quang Vinh: Nghe bà Dung nói, tôi càng thấm thía cái gian nan của những cá nhân hoặc những doanh nghiệp sản xuất công nghệ trong nước. Đơn cử VDECA, trong 5 năm gần đây, để góp phần vào CĐS nông nghiệp, trong đó có quản lý, giám sát, truy xuất minh bạch các loại nông sản và kết nối với thị trường trong nước và quốc tế, chúng tôi đã xây dựng thành công Giải pháp phần mềm eGap (quản lý điện tử 4.0 thực hành nông nghiệp tốt) và Cổng thông tin Quản lý, Giám sát, Truy xuất minh bạch và Kết nối thị trường nông sản Việt Nam (http//egap.vn) với 4 ngành sản xuất được quản lý và 100 cổng phụ (sub - domain) cho 63 tỉnh, thành và các doanh nghiệp nông nghiệp lớn. Phần mềm Nhật ký điện tử eGap cho 4 ngành (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, chế biến), trong đó có sản phẩm OCOP trên nền tảng thông tin di động Android và Ios, thay cho nhật ký giấy thủ công, đưa tem QR Code vào quản lý chặt chẽ có giám sát của nhà nước. Thành tựu này được Ngân hàng Thế giới trao giải thưởng đổi mới sáng tạo PoC-WB/2017, được Bộ Khoa học Công nghệ nghiệm thu năm 2019, Bộ NN&PTNT cũng đã có công văn ủng hộ ứng dụng ra diện rộng. Hiện Egap.vn đã có trên 15 tỉnh, thành với 183 HTX ứng dụng có kết quả.

Ngoài ra còn có giải pháp công nghệ iMetos – Thời tiết thông minh, MobiAgri – App canh tác thông minh trên di động, Phần mềm quản trị và kế toán doanh nghiệp MISA, Cloudify.vn… cũng đều đã đi vào đời sống và mang lại kết quả.

Nghe thì có vẻ độ nhận diện cũng không đến nỗi nào, nhưng tôi phải thú thật, so với tiềm năng mà những giải pháp này mang đến, việc ứng dụng diễn ra rất chậm trong thực tế. Chủ yếu do nhận thức của người dân và các cấp quản lí vẫn còn nhiều bất cập.

Chúng tôi đã tự bỏ công, bỏ tiền ra nghiên cứu, không lấy của nhà nước một đồng; những thành tựu công nghệ mà chúng tôi đạt được là thật, lại có tính ứng dụng trong thực tế. Giá như nó có một đời sống sâu rộng trong sản xuất nông nghiệp thì tốt biết mấy. Không riêng VDECA mà những người làm về công nghệ chỉ cần nhà nước quan tâm, có chế tài bảo vệ, công nhận nghiên cứu một cách nghiêm túc và có cơ chế đưa vào đời sống thì tôi nghĩ, đường đi của nông sản Việt ra bên ngoài sẽ khác

 
 
 
 

Ông Hồ Xuân Hùng: Chia sẻ của PGS.TS Mai Quang Vinh chạm đến một vấn đề được cho là đặc biệt quan trọng của bất cứ cuộc cách mạng khoa học công nghệ nào, đó là các nghiên cứu, sáng chế về công nghệ. Không chỉ nhập, mua công nghệ bên ngoài, nước ta cũng có những nhà khoa học, doanh nghiệp làm về khoa học sáng chế, ứng dụng CĐS và công nghệ thông minh AI vào phục vụ nông nghiệp. Đó là một điều rất đáng mừng. Nguyên nhân khiến những thành quả nghiên cứu của họ chưa được ứng dụng rộng, thiết nghĩ phải đưa vào chương trình nghị sự. 

Đặc biệt trong câu chuyện này, yếu tố nội sinh rất quan trọng. Quốc gia nào cũng hướng tới điều này. Hiện, chi phí mua, nhập công nghệ bên ngoài rất đắt đỏ, dễ xảy ra tình trạng cũ người mới ta. Muốn chi phí rẻ, chỉ có cách cậy vào người nhà mình. Các nhà khoa học trong nước lại hiểu thực địa Việt Nam nên sẽ có những nghiên cứu phù hợp với quy mô sản xuất của ta hơn. Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách khuyến khích họ. Lẽ ra, khi người ta nghiên cứu thành công và ứng dụng được vào thực tiễn, phải công nhận bằng sáng chế, bảo hộ sáng chế cho họ. Những điều mà PGS Vinh kể là một câu chuyện rất lạ lùng. Cũng là một câu chuyện đáng tiếc.

Bà Lê Thị Dung: Nghe PGS Mai Quang Vinh và ông Hồ Xuân Hùng nói, là một doanh nghiệp nông nghiệp, chúng tôi cũng rất vui nếu được sử dụng công nghệ “Made in Vietnam” vào sản xuất. Hiện, chúng tôi đang phải “nhập” công nghệ từ Hàn Quốc. Trong tương lai, nếu Việt Nam có những giải pháp, công nghệ nào phù hợp, chúng tôi sẽ hết sức ủng hộ.

 
 

PGS.TS Mai Quang Vinh: Cách đây 10 năm, khi chúng tôi bắt đầu nghiên cứu về CĐS, thế giới đã ứng dụng và thu được quả ngọt từ CĐS rất nhiều. Chất lượng nông sản rất tốt, người ta quản lí rất chặt chẽ. Chẳng hạn như EU, tuy đã có trình độ phát triển nông nghiệp cao, quy mô mỗi trang trại từ vài chục tới hàng trăm ha, thì giờ đây, hàng năm mỗi hécta canh tác vẫn được Liên minh châu Âu tài trợ 250 Euro (hơn 6 triệu đồng/ha) cho nông dân, quản lý, giám sát, bảo vệ môi trường nông nghiệp. Mỗi hécta phải đóng phí 100 Euro/năm, giao cho Trung tâm dịch vụ vùng hỗ trợ cho giám sát, kiểm tra chất lượng.

Việt Nam tới giờ vẫn chẳng có đồng nào. Nông dân muốn trồng cây gì cũng được miễn sao sẽ được doanh nghiệp, thương lái mua, đừng để giải cứu là được. Đó là điều nguy hiểm. Để rồi, cuối năm nào cũng thống kê nông nghiệp nước ta đạt được hàng chục tỉ đô la, thế là vỗ tay, là tự hào. Biết đâu làm tốt thì chúng ta đạt được hàng trăm tỉ?

Tôi công tác trong ngành nông nghiệp tới nay đã khoảng 50 năm, qua 7 đời bộ trưởng, cảm thấy nông nghiệp nước mình vẫn còn đi rất chậm, chưa xứng tiềm năng của nông nghiệp Việt Nam. Việt Nam muốn trở thành cường quốc về nông nghiệp, phải dùng khoa học công nghệ để thúc đẩy sản xuất, nâng cao giá trị sản phẩm. Hiện, ta có công cụ mà không dùng, không có chế tài, không ủng hộ, thậm chí không làm… Đừng đặt ra câu hỏi vì sao chúng ta cứ lẹt đẹt đi sau. 

 
 

Ông Hồ Xuân Hùng: Việt Nam cần nhanh chóng nắm bắt cơ hội mới để thực hiện CĐS trong nông nghiệp. Tuy nhiên có mấy câu hỏi mà chúng ta phải trả lời cho bằng được. Một là, Chính phủ, Bộ NN&PTNT phải làm rõ ngành nào, lĩnh vực nào trong nông nghiệp có thể đi trước một bước để ưu tiên hơn. Mục đích là tạo ra đột phá, mũi nhọn để đưa CĐS vào nông nghiệp trong bối cảnh chúng ta chưa có điều kiện để đưa tất cả cùng một lúc. Và chính sách đi theo là gì để có thể trở thành một mô hình dẫn dắt?

Hai là, ai làm, ai đưa CĐS, đưa trí tuệ nhân tạo vào nông nghiệp? Ta khẳng định chủ thể là nông dân, vẫn là con người. Nhưng làm thế nào để người nông dân thực sự trở thành chủ thể, thành đối tượng thụ hưởng của CĐS?

Thứ ba, ai đồng hành, dẫn dắt? Doanh nghiệp là người dẫn dắt. Đồng hành là các tổ chức nhà nước. Nhưng ở đây cần tạo được sự đồng hành, đồng bộ của xã hội, hay nói như chị Lê Thị Dung, cần có một sự kết hợp chặt chẽ giữa 4 nhà, gồm nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà nông.

Thứ nữa, vì ứng dụng công nghệ mới, chi phí cao, rủi ro nhiều, ai bảo hộ cho doanh nghiệp, cho người dân? Ban đầu vẫn cần có nhà nước chung tay nhưng sau đó là nguồn lực xã hội hóa, phải làm ra sao? 

Cuối cùng, Chính phủ cần có quy hoạch, quy định, chiến lược rất cụ thể, để nhất quán trong việc sớm đưa CĐS vào nông nghiệp. Chiến lược phải bền vững và cụ thể, thì người ta mới yên tâm đầu tư và phát triển nông nghiệp.

Bà Lê Thị Dung: Ông Hùng có thể dẫn ra một vài ví dụ mà theo góc nhìn của ông, ngành nào, lĩnh vực nào trong nông nghiệp có thể đi trước một bước để dành sự ưu tiên cho nó không?

Ông Hồ Xuân Hùng: Cụ thể và rõ nhất có thể là lĩnh vực chăn nuôi. Ta có thể gắn chíp trên tai con heo, hoặc quản lí hồ cá, đi đâu cũng quản lí được. Cây trồng cũng thế. Giờ người ta có thể chăm sóc cây trồng qua mạng. Ta không làm CĐS tràn lan vì chưa đủ nguồn lực. Hai là, đất nông nghiệp ở ta manh mún, phân tán, nhỏ lẻ. Vì vậy cần lựa chọn lĩnh vực, vùng để làm việc. Chính phủ phải giao cho Bộ NN&PTNT và các bộ ngành liên quan, phải xác định rất cụ thể từng lĩnh vực trên khả năng hiện có của mình và trên khả năng mà nông dân tiếp cận được nhanh nhất. Hay như lĩnh vực quản lí sản xuất, ta cũng đều có thể làm được.

 
 

Ông Hồ Xuân Hùng: Công nghệ số dựa vào dữ liệu để phân tích; để thực hiện CĐS, phải có big data (kho dữ liệu lớn). Nhưng Việt Nam chưa có big data về nông nghiệp. Ngay cả việc thống kê hiện còn chậm, thiếu, chưa đầy đủ. Việt Nam vẫn còn thống kê theo kiểu thủ công, chưa có phương pháp thống kê theo công nghệ. Tôi nghĩ, muốn thực hiện CĐS, cần tiến hành ngay và gấp một kho dữ liệu. Nhà nước phải là người đứng ra làm việc này.

Bà Lê Thị Dung: Hiện, nhân sự chủ lực có trình độ của công ty tôi có khoảng 20 người. Để hướng tới những mục tiêu phát triển mới, chúng tôi cũng rất mong muốn tuyển được thêm những người mới. Chúng tôi đang có hỗ trợ một số sinh viên, để sau khi học xong, các em về quê, vào công ty làm. Nguồn nhân lực của nước ta nhìn chung là dồi dào và thông minh, tuy nhiên nhân lực để thực hiện CĐS vẫn cần phải học hỏi thêm.

Ông Hồ Xuân Hùng: Chất lượng nguồn nhân lực, hiện rất thấp và ít. Thấp ở cơ quan áp dụng và đưa CĐS về, thấp ở cả người được hưởng thụ và ứng dụng CĐS. Chúng ta cũng thiếu công cụ ứng dụng CĐS nữa. Đâu chỉ có máy tính mà cần nhiều thiết bị khác nữa. Công tác truyền thông cũng đang yếu kém. Đó là lí do tôi nói, chúng ta phải dành tâm sức để tập trung toàn bộ cho chiến lược này thì may ra chúng ta mới làm được.  

Ngoài ra, CĐS trong nông nghiệp không phải là câu chuyện riêng của ngành nông nghiệp. CĐS thành công, nông nghiệp nhảy vọt, chất lượng và đầu ra nông sản minh bạch, toàn thể người dân cũng đều được hưởng lợi. Trong câu chuyện đào tạo nhân lực cho CĐS nông nghiệp này, ngoài hệ thống các trường của Bộ NN&PTNT và Bộ Thông tin Truyền thông, thì những trường có tiếng về kĩ thuật như Đại học Bách khoa… đều nên có những khoa đào tạo nhân lực trong CĐS. Ngoài ra, có thể liên kết với nước ngoài để đưa những chương trình giảng dạy mới về. 

Trong khi đó, có 77% người dân nông thôn kết nối internet, 91% trong đó lên mạng hằng ngày; tuy nhiên, chủ yếu để giải trí hoặc xem những tin tức bề nổi, giật gân. Bà con vẫn chưa được tiếp cận những thông tin mới nhất về CĐS nông nghiệp. Để thay đổi nhận thức của người dân, ngoài những kênh truyền hình chuyên biệt đã có về nông nghiệp, nhà nước cũng phải cho ra một cổng thông tin chính chủ (lập ra từ các trạm dữ liệu cơ sở từng vùng). Ví dụ, nuôi heo cần gì, trồng ngô cần gì, vùng nào trồng cây nuôi con gì? Thị trường cây con hiện nay ra sao? Dự báo thế nào? Với bà con, phải chỉ ra thật cụ thể. Phải làm sao để bà con vào mạng là biết. Đồng thời, phải tạo ra diễn đàn, hỏi – đáp, giải quyết những thắc mắc của bà con. Có thế, người nông dân mới có tri thức, kĩ năng và làm chủ mảnh ruộng của mình, không chỉ làm chủ vùng sản xuất mà làm chủ thị trường. Ngoài ra, bên cạnh những tích cực, internet cũng mang lại những tiêu cực, đặc biệt là tin giả. Giống không tốt mà nói tốt. Phân không tốt mà nói tốt. Sản phẩm còn nhiều dư lượng độc hại mà vẫn vin vào cái mã QR để quảng cáo là hàng hữu cơ, sản phẩm sạch. Vì thế, ngoài cung cấp tri thức nông nghiệp đúng cho bà con, cổng thông tin chính chủ mà tôi nói còn có thể giải quyết câu chuyện tin giả, tin gây nhiễu loạn, làm ảnh hưởng đến an ninh nông nghiệp, an ninh kinh tế.

 
 

Bà Lê Thị Dung: Hiện, để CĐS, doanh nghiệp chúng tôi có ba khó khăn lớn nhất, đó là nhân lực, công nghệ, vốn, đòi hỏi doanh nghiệp có sự đầu tư theo chiều sâu,  thời gian dài và kiên trì từng bước. Ở nước ngoài, nông nghiệp của họ phát triển, có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, có cả bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm thiên tai. Nhưng ở nước ta, những người làm nông nghiệp giống như đang đi trên dây, làm nông nghiệp lẫn làm kinh tế nông nghiệp vẫn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, thị trường, độ rủi ro cao… Như vốn vay, khi các doanh nghiệp về nông nghiệp đi vay, các ngân hàng cũng rất ngại cho vay.  

Rất mong, cơ quan quản lí nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vay ưu đãi với cơ chế thông thoáng, để doanh nghiệp có khả năng đầu tư dài hạn vào lĩnh vực này. Việc học tập các mô hình chuyển đổi tiên tiến trên thế giới phù hợp với quy mô vừa và nhỏ cũng là điều hết sức cần thiết với công ty. Trong thời gian sắp tới, tôi cũng mong muốn UBND tỉnh hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp một mô hình CĐS trong nông nghiệp để cùng làm, cùng đánh giá, đồng thời tạo điều kiện để nhiều đơn vị khác có nhu cầu đến học tập, mở rộng trong các giai đoạn tiếp theo.

 
 

PGS.TS Mai Quang Vinh: Nói riêng trong công nghệ, mà hot nhất hiện nay, ngành nông nghiệp đang đưa vào tiến trình kế hoạch thực hiện là CĐS, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn (3 phạm trù cuối này thực ra có nhiều cái giống nhau, khi áp dụng dễ lầm lẫn, chồng chéo), cần phải xác định ta sử dụng công nghệ nào, không phải công nghệ nào cũng áp dụng được. Nhà nước phải ban hành tiêu chí, có yêu cầu cụ thể, đạt chuẩn thì mới cho đưa vào ứng dụng, đưa cho bà con dùng. Khi xác nhận công nghệ đó mang lại hiệu quả, có khả năng dễ ứng dụng, thân thiện với người nông dân thì nhà nước nên có chế tài nhân rộng để phát huy hiệu quả của sáng chế, đồng thời, yêu cầu những sản phẩm đưa ra thị trường, phải dán tem nhãn QR xác nhận, minh bạch chất lượng. Ý tôi là tem nhãn thật, chứ không phải kiểu dán tem lung tung như hiện nay. Lâu nay, chúng ta thiếu sự quyết liệt từ phía các hệ thống quản lý nhà nước. Nói phải đi đôi với làm. Làm thực chất. Không làm chung chung. Không làm kiểu phong trào, đề ra cho có, phải có chương trình hành động cụ thể.

CĐS là một chiến lược khó nhằn, đòi hỏi một chiến lược tổng thể, không có sự quan tâm đồng bộ của các cấp, các ngành lẫn người dân, thì rất khó đưa nông nghiệp Việt Nam chuyển về lượng và chất được.

Ông Hồ Xuân Hùng: Người nông dân Việt Nam dù nghèo vẫn gắng nuôi con ăn học để thoát nghèo. Ngày xưa, muốn độc lập tự do, họ đồng ý để con đi bộ đội. Họ rất khát vọng làm giàu. Có công nghệ tiên tiến, hiện đại, khát vọng đó của bà con nông dân càng cháy bỏng. Nhưng vì nhiều lí do về thế hệ, thời cuộc, họ có nhiều hạn chế trong việc tiếp cận những tri thức nông nghiệp mới, trong công cuộc CĐS quốc gia. Cái họ cần là có ai đó cầm tay chỉ lối, chỉ dẫn cho họ cần làm gì. Nếu được, họ chính là những người nông dân chuyên nghiệp, nông dân số, làm giàu được trên thửa ruộng ông cha, cũng là sức mạnh làm nên diện mạo của nền nông nghiệp mới này.

Cảm ơn các khách mời đã tham dự vào bàn tròn ngày hôm nay.

ĐẬU DUNG