, //, :: GTM+7

Tầm nhìn và giải pháp khai thác sử dụng nước ở Đồng bằng sông Cửu Long

TÔ VĂN TRƯỜNG

Nguồn nước ngọt được khai thác sử dụng cho sinh hoạt, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là nước mưa, nước ngầm và chủ yếu là nước sông Mekong.

 

Hàng năm nhu cầu nước cho nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản tại ĐBSCL là khoảng 16 tỷ m³ nước ngọt, 23 tỷ m³ nước lợ và khoảng 8 tỷ m³ nước ngọt để pha loãng theo nhu cầu sinh trưởng của con tôm. Do biến đổi khí hậu, tác động của các đập thủy điện ở thượng nguồn và việc khai thác ngày càng nhiều tài nguyên nước của các nước ven sông nên lũ nhỏ, hạn, kiệt, xâm nhập mặn trở thành mối nguy cao nhất, tiềm tàng nhất đối với sự phát triển và phát triển bền vững của ĐBSCL.

 

Mùa khô 2019 -2020, tình trạng hạn - mặn - kiệt ở ĐBSCL diễn ra rất nghiêm trọng.
Mùa khô 2019 -2020, tình trạng hạn - mặn - kiệt ở ĐBSCL diễn ra rất nghiêm trọng.

Mùa khô 2019 - 2020, tình trạng hạn - mặn - kiệt ở ĐBSCL còn nghiêm trọng hơn năm hạn lịch sử 2015 - 2016. Kết quả phân tích chuỗi số liệu quan trắc khí tượng thủy văn từ 1975 tới nay cho thấy: Thời gian, cường độ và tần suất hoạt động của các cực đoan khí hậu - thời tiết ở Việt Nam nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung (trong đó có lưu vực sông Mekong) có xu thế gia tăng rõ rệt. Theo thông báo của cơ quan NASA - Mỹ, khô hạn năm nay là cao nhất trong lịch sử 136 năm qua, chủ yếu là hiện tượng El Nino cực đoan gây hạn gay gắt trên toàn lưu vực Mekong. Ngoài ra, do các nguyên nhân chính bao gồm: (1) Lượng nước vào ĐBSCL các tháng cuối mùa mưa năm 2019 và các tháng đầu năm 2020 thấp hơn bình quân nhiều năm; (2) Do tác động của các đập thủy điện ở thượng lưu sông Mekong; (3) Lượng mưa các tháng cuối mùa mưa năm 2019 cũng thấp hơn trung bình nhiều năm làm cho thế cân bằng giữa nước mặn và nước ngọt có xu hướng dịch vào sâu trong đất liền; ảnh hưởng của nước biển dâng, triều cường ngày càng có xu thế lên cao và mạnh hơn; (4) Nguyên nhân chủ quan vẫn là việc sản xuất nông nghiệp chưa chuyển đổi đáng kể cho nên lượng nước sử dụng vẫn còn lớn gây áp lực lên nguồn nước…

Điều đáng mừng là năm nay nhờ công tác dự báo về khí tượng thủy văn tốt, cảnh báo sớm nên thiệt hại ít hơn nhiều so với năm 2016. Ngành khí tượng thủy văn và ngành thủy lợi hiện đã có đủ cơ sở nhân lực, vật lực, trí lực (mạng lưới trạm quan trắc, máy móc quan trắc, đội ngũ cán bộ khoa học, hợp tác quốc tế, các phương pháp dự báo...) đảm bảo làm tốt công tác dự báo lũ lụt, hạn, kiệt, mặn ở ĐBSCL. Quy luật khí hậu nhiệt đới gió mùa xứ sở châu Á đã ấn định quy luật mùa khô - kiệt trùng mùa gió Đông Bắc (tháng 12 - tháng 4 năm sau), mùa mưa lũ trùng mùa gió Tây Nam (tháng 5 đến tháng 11) diễn ra trên ĐBSCL hàng năm. Trong mùa khô - kiệt, thường tổ hợp hạn, kiệt, mặn tác động mạnh nhất đến sản xuất và đời sống vào khoảng thời gian từ 15/2 đến cuối 15/4 (tùy từng năm). Vậy trong hơn hai tháng đó, ĐBSCL sẽ phòng chống hạn - kiệt - mặn căn cơ như thế nào khi có cực đoan thời tiết - khí hậu kết hợp với các tác động phụ khác xảy ra?

Để hướng tới phục vụ cho tầm nhìn dài hạn thì các hành động/can thiệp không nên nhắm vào tình trạng hiện tại để bảo vệ, duy trì (ví dụ lúa mùa khô ven biển bị thiệt hại vì mặn, chẳng hạn). Nhận thức là cả quá trình. Cần xây dựng một nhận thức mới về phát triển ĐBSCL, trong đó mục tiêu phát triển không phải là bao nhiêu tấn lúa, bao nhiêu tấn tôm mà phải là đời sống của người dân ĐBSCL được cải thiện, nâng lên như thế nào? Từ nhận thức đó mới đề xuất các nhóm giải pháp, trong đó ưu tiên các giải pháp tốn ít chi phí, có hiệu quả sớm. Các giải pháp công trình cần phải cân nhắc thận trọng, dừng hẳn các dự án có nguy cơ "hối tiếc", vì vậy cần phải xây dựng được bộ tiêu chí sàng lọc dự án một cách công bằng và minh bạch.

Một số việc làm cụ thể:

Không nên tiếp tục tư duy số lượng. Giai đoạn này không nên đem số tấn lúa năm sau cao hơn năm trước ra làm thành tích. Cần tránh tư duy đại công trình, giờ có rất nhiều việc có thể làm ở cấp vi mô.

Nước ngọt đúng là tài nguyên quý giá nhất không những cho sản xuất mà cả đời sống con người, đặc biệt là nước sinh hoạt. Tuy nhiên, không nên làm trái quy luật tự nhiên. Một ví dụ là cố ngọt hóa ở những vùng xa nguồn nước ngọt, gần nước mặn. Có thể hình dung như là xua quân ngọt đi xâm lăng lãnh thổ của vương quốc mặn. Ở Gò Công chẳng hạn, mùa khô năm nay, mặn lên sớm qua khỏi cống Xuân Hòa, cắt luôn đường “viện binh”, cống Xuân Hòa không lấy nước ngọt được. Số nước ngọt nội đồng trong Gò Công không kéo dài bao lâu, đến kênh cũng khô nứt đáy. Ngọt không có mà mặn cũng không, vậy nên đất co ngót, sụp gãy tầng mặt. Nói chung nguyên tắc là, bên trong không có nước thì ngăn mặn vô ích. Chỗ nào mà mặn cắt đường viện binh thì chắc chắn bên trong sẽ không có nước. Còn ở Trần Văn Thời thì càng không có nguồn viện binh nào cả, cho nên cả vùng khô khốc.

Ưu tiên số 1 hiện nay là cung cấp nước cho sinh họat của người dân nông thôn các tỉnh ven biển là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất, đặc biệt ở bán đảo Cà Mau. Vấn đề này không quá khó vì lượng nước mưa rất dồi dào có thể thu gom, trữ nước mưa dùng cho sinh họat ở nông thôn, có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội, chính trị và môi trường. Một khi người dân được cấp nước, chính quyền mới từng bước đặt luật khai thác nước ngầm để có thể kiểm soát những tác động tiêu cực liên quan đến lún sụt đất ở ĐBSCL. Khác với dự án đầu tư xây dựng lớn cần phải hoàn thành mới phát huy hiệu quả, chương trình này triển khai đến đâu là hiệu quả ngay đến đó, vì mỗi năm sẽ có bao nhiêu người dân vùng nông thôn có nước sạch sinh hoạt.

Ở ĐBSCL, các hệ thống công trình thủy lợi cần rà soát và suy ngẫm như hệ thống công trình cống Cái Lớn - Cái Bé ưu việt rõ là phòng tránh thiên tai nhưng nếu đưa vào vận hành mà không khéo (dễ xảy ra) sẽ có hệ quả xấu về môi trường trên diện rộng. Để "khép kín" thì hệ thống này cần phải làm nhiều nữa (ví dụ như Nam Chắc Băng...) nhưng như thế có còn phù hợp với quan điểm dựa vào tự nhiên vì lưu vực sông Cái Lớn - Cái Bé có diện tích rộng lớn có mặn/ngọt luân phiên cho nên rất phong phú cơ hội cho sinh kế (ví dụ tôm/lúa)…

Tương tự như vậy, hệ thống công trình Ba Lai (đang được đầu tư tiếp bởi Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản) để khép kín không cho mặn tập hậu nhưng phải nghĩ đến xa hơn là ngày nào đó, mặn lên đến Bến Rớ thì hệ thống công trình này sẽ xử lý ra sao? Nghĩa là hệ thống được quy hoạch với tư tưởng ngọt hay lợ/mặn thì phải thực hiện dứt khoát với dân và ngành nông nghiệp. Thống nhất với nông nghiệp về chuyển hướng theo Nghị quyết 120, để thủy lợi bố trí tương ứng thích hợp.

Vùng ven biển nên chấp nhận một vành đai mặn bình thường hàng năm. Theo đó, giúp cho hệ thống canh tác luân canh mặn - ngọt. Người dân muốn chuyển lắm, nhưng không có nguồn lực và không có tiền tự làm công trình. Mùa mặn thì theo mặn, mùa ngọt thì theo ngọt, nhưng do thời tiết khí hậu biến thiên cho nên cần có công trình để hỗ trợ lúc giao mùa. Ở ven biển cũng rất cần thủy lợi giúp cho việc lấy nước và xả nước của các vùng thủy sản để tránh tình trạng ô nhiễm chảy lòng vòng, tôm chết cả xã cùng lúc. Kênh có 2 cống ở đầu và cuối, lưu lượng Qmax và Qmin sẽ giảm nhưng Qtrung bình tăng nhờ điều tiết.

Vùng đầu nguồn Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười không cần phá đê bao hoặc hạ thấp cao trình gì cả, có thể làm bổ sung các cống điều tiết nước, lấy phù sa, hoặc lấy một số đoạn đường tràn để có thể cho nước, phù sa, cá tôm vào trong mùa lũ và chuyển nền nông nghiệp thành hai vụ lúa có giá trị cao hơn.

Vùng giữa, vấn đề bây giờ là ngành giao thông, hoặc là do chính quyền địa phương, khi làm lộ ven sông thì bít hết cả. Nước không còn thông giữa vườn tược và sông, cho nên bùn đáy mương đen thui, không phải màu vàng phù sa như xưa nữa. Đem bùn này bồi gốc cây là cây chết. Vậy nên cả vùng miệt vườn cây trái bây giờ chỉ dựa vào phân bón là chủ yếu. Ngành thủy lợi nên làm việc chặt chẽ với ngành giao thông ở cả cấp vĩ mô khi quy hoạch những tuyến đường lớn và cả cấp vi mô khi làm đường làng....

Trước hết, phải làm thật tốt chuyển đổi một cách căn cơ lâu dài cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi theo phương châm tiết kiệm nước, ít dùng nước, thích hợp trên cả ba vùng ngọt, lợ, mặn của ĐBSCL. Phát động phong trào toàn dân tham gia chống hạn, kiệt, mặn ĐBSCL bằng phương pháp tích trữ nước hợp lý như bồn chứa, bể chứa, ao hồ và đầm lầy nhỏ gần nhà hoặc trong thôn xã. Các tỉnh trọng điểm mặn ĐBSCL có thể làm việc với Tổng Công ty Cấp nước Cần Thơ, là đơn vị có thể cấp nước sạch với khối lượng lớn bằng đường ống dẫn đến các điểm trung tâm hạn, mặn, kiệt ở miền Tây. Từ các điểm trung tâm này, dùng các phương tiện xe bồn vận chuyển nước đến các cụm cộng đồng dân cư tiếp nhận. Về lâu dài, nếu thấy hiệu quả, Chính phủ cần hình thành dự án mang tính chiến lược mở rộng quy mô nói trên đủ khả năng tham gia phòng chống hạn, kiệt, mặn cực đoan ở một số tỉnh trọng điểm ĐBSCL.

Không nên đào hồ tích nước quy mô lớn trên ĐBSCL, vì hồ miền Bắc và miền Trung xây đắp tích nước ở khu vực cao rồi làm kênh dẫn nước về vùng hạn - kiệt - mặn. ĐBSCL địa hình thấp, bằng phẳng, đất chua phèn, đào hồ siêu lớn có cao trình dưới – (3 - 4m) để tích nước sẽ bốc hơi, thấm dọc và thấm ngang theo quy luật rút dần đến kiệt của dòng chảy hệ thống sông kênh, vả lại quỹ đất ĐBSCL là không thể lãng phí thêm vì đã có hệ thống sông kênh dày đặc, vì địa chất ĐBSCL là trầm tích dày nhiều lớp sẽ làm nước hồ nhiễm mặn, chua phèn và tích tụ chất độc của sản xuất và đời sống dồn vào.

Các ngành kinh tế dựa trên nền nước mặn (hoặc mặn/ngọt luân phiên) tạo cho người dân nhiều cơ hội hơn. Nhà nước ưu tiên hỗ trợ người dân trước hết về nguồn nước phục vụ sinh hoạt đồng thời hỗ trợ phát triển sinh kế giúp cho người dân được tham gia vào chuỗi giá trị một cách công bằng và hiệu quả.

 

Tầm nhìn cho chiến lược phát triển bền vững của ĐBSCL trong điều kiện biến đổi khí hậu phải dựa vào Nghị quyết 120 về phát triển bền vững ĐBSCL của Chính phủ. Thủy lợi vẫn là biện pháp hàng đầu để phục vụ phát triển nông nghiệp và các ngành kinh tế khác ở ĐBSCL. Giải pháp tốt nhất là theo nguyên tắc không hối tiếc, lựa chọn ưu tiên những cái nào ít hối tiếc thì làm trước, có nghĩa là rủi ro sai lầm thấp, khi nhận ra sai lầm muốn quay lại thì sửa được, hành động của một ngành không gây hại lớn đến ngành khác, hành động của một địa phương không gây tác động xấu đến các địa phương khác, vì ĐBSCL là một tổng thể. Hơn nữa, hành động của hiện tại không khóa chặt con đường phía trước vào một lối duy nhất.

 

TÔ VĂN TRƯỜNG

Bình luận

Xem nhiều





Nổi bật

Không phải bây giờ lời kêu gọi sống chung với biến đổi khí hậu, dân gian gọi là thuận thiên mới vang lên. Nhưng nội hàm của thuận thiên, đến lúc phải thay đổi trong cái nhìn...
Được quan tâm






Đăng ký nhận tin nóng
Giúp bạn cập nhật các thông tin mới nhất